1. hoàng huyền

    hoàng huyềnThành Viên Mới

    Tham gia ngày:
    22 Tháng mười hai 2016
    Bài viết:
    18

    HCM Đang mang thai có được đơn phương ly hôn không ?

    Thảo luận trong 'Linh tinh' bắt đầu bởi hoàng huyền, 22 Tháng mười hai 2016.

    Thưa luật sư cho em hỏi : Em lập gia đình đã được 7 năm nay nhưng cuộc sống vợ chồng không được hoà thuận, do anh ấy rất mê cờ bạc – cá độ – số đề.
    Và rất nhìêu năm nay luôn trong cảnh nợ nần, vợ chồng em đã có với nhau 1 bé năm nay gần 7 tuổi.

    Trong những năm qua vợ chồng em luôn cãi nhau về cuộc sống do bài bạc gây nên. Nhiều lần em cũng đưa đơn cho anh đòi ly hôn vì khuyên can anh không được, nhưng anh đều tỏ ra hối hận – xin lỗi, có lần nói ngang là: mầy muốn ly hôn thì đưa đơn đây, để con đó cho tao nuôi thì tao ký, và khi đó em cứ sợ không nhận được quyền nuôi con vì mức luơng của em chỉ có 4 triệu còn anh thì hằng tháng gần 10 triệu, nên rồi em cố gắng chịu đựng. Từ đó đến nay em cứ ráng sống và củng không còn tình cảm gì nhiều với chồng nữa, nhưng…. Không may em lỡ mang thai em bé thứ 2 và bây giờ được 6 tháng nhưng chồng em tỏ ra không thích vì biết đứa thứ 2 vẫn là bé gái và càng chơi bời không lo cho cuộc sống gia đình hơn. Tuy đang mang thai nhưng em cảm thấy rất chán nãn và muốn được ly hôn hơn nữa nên em muốn hỏi nhờ luật sư tư vấn cho em là em nên chờ sinh em bé ra rồi đưa đơn ly hôn hay đưa đơn bây giờ ạ??? Và hộ khẩu của vợ chồng em ở Quãng Ngãi nhưng đã sống tại TP.HCM được gần 10 năm nay (nhưng chưa có kt3)thì đưa đơn ở đâu thì giải quyết để nhất??? Em xin cảm ơn!

    Trả lời:

    Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng Thư viện pháp lý

    I. Căn cứ pháp lý:

    Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

    II. Nội dung tư vấn:

    Về quyền ly hôn:

    Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy đình về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn như sau:

    “1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

    2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

    3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”.

    Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chỉ hạn chế quyền đơn phương ly hôn của người chồng khi vợ đang có thai, sinh conm hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi mà không hạn chế quyền của người vợ. Vì vậy, trường hợp của chị, chị đang mang thai thì vẫn có quyền đơn phương yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

    Khi đơn phương ly hôn thì Tòa án sẽ căn cứ vào tình trạng hôn nhân thực tế của vợ chồng để ra phán quyết theo quy định tại điều 56 luật hôn nhân & gia đình 2014 về ly hôn theo yêu cầu của 1 bên. “1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

    Để được tòa án thụ lý đơn ly hôn đơn phương thì cần phải có căn cứ ly hôn, căn cứ ly hôn trong trường hợp này bao gồm:

    + Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được;

    + Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn;

    + Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

    Như vậy , trong trường hợp này, nếu như một trong hai bên vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì người chồng hoàn toàn có quyền yêu cầu tòa án cho mình ly hôn đơn phương

    Tình trạng hôn nhân trầm trọng ở đây được hiểu là :

    Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
    Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

    Vợ chồng không chung thủy với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình.

    Ở đây, theo như thông tin bạn cung cấp thì vợ chồng bạn đã có cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, chồng bạn đam mê cờ bạc, cá độ, số đề. Tòa án sẽ căn cứ vào trường hợp đây có phải tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không thể đạt được để làm căn cứ xét đơn ly hôn.

    Về quyền nuôi con:

    Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:

    1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

    2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

    Từ những quy định trên, có thể rút ra một số điều:

    – Bạn đang mang thai và có một đứa con đã đủ 7 tuổi. Vậy Tòa sẽ theo nguyện vọng của con.

    Bên cạnh đó, Điều 82 có quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Theo đó:

    1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

    2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

    3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

    Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

    Nếu bạn không được trực tiếp nuôi con thì vẫn có quyền được cấp dưỡng và thăm nom cháu bé. Không ai có thể cản trở quyền này của bạn. Do vậy chúng tôi khuyên bạn nên cân nhắc. Nếu bạn thực sự có khả năng để nuôi con một cách đầy đủ nhất, điều đó là tốt. Nhưng nếu bạn thấy chồng bạn là người có thể chăm lo tốt hơn cho con mình thì bạn có thể cân nhắc vấn đề này. Vì qua thông tin bạn đưa ra, có thể việc ly hôn này xuất phát từ chuyện riêng của vợ chồng và hai vợ chồng bạn đều yêu thương con mình. Vậy nên chúng tôi mong bạn và vợ bạn có thể cân nhắc kĩ lưỡng vấn đề này vì tương lai con bạn.

    Về thẩm quyền giải quyết việc ly hôn:

    Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định như sau:

    “Điều 39. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ

    1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

    a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;

    b) Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;

    c) Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết.”.

    Căn cứ vào quy định pháp luật trên thì:

    – Nếu vợ chồng bạn ly hôn thuận tình, vợ chồng bạn có thể thỏa thuận với nhau về Tòa án nơi nộp đơn, có thể là Tòa án nơi bạn cư trú hoặc Tòa án nơi chồng bạn cư trú hoặc Tòa án nơi cả hai vợ chồng bạn cư trú.

    – Nếu bạn ly hôn đơn phương thì bạn phải nộp đơn xin ly hôn tới Tòa án nhân dân quận/huyện nơi chồng bạn cư trú.

    Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

    Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.

    Bạn có thể liên hệ với chúng tôi qua 0908.648.179
     

Chia sẻ trang này